Chuyển đổi số y tế không thể bỏ qua bệnh án điện tử

Bệnh án điện tử đã trở thành xu hướng bắt buộc trên hành trình chuyển đổi số y tế ở nước ta. Từng bước loại bỏ bệnh án giấy, liên thông dữ liệu giữa các bệnh viện, phòng khám sẽ góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở các tuyến.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm sao có thể vừa liên thông dữ liệu vừa đảm bảo tính bảo mật trong y khoa? Đây là bài toán thách thức cho các doanh nghiệp khi triển khai phần mềm bệnh án điện tử.

Gỡ khó khi “khai tử” bệnh án giấy

Theo các chuyên gia công nghệ y tế, thời gian qua, y tế Việt Nam đã có bước chuyển biến vô cùng mạnh mẽ khi hòa mình vào dòng chảy công nghệ 4.0. Trong đó, bệnh án điện tử (EMR) được xem là bước tiến trong công tác quản lý hồ sơ bệnh án và phục vụ đắc lực cho hoạt động khám chữa bệnh (KCB), giúp tiết kiệm thời gian, chi phí, nhân lực, mang lại độ chính xác cao, đơn giản hóa thủ tục hành chính… Bệnh án điện tử đang là mục tiêu hướng tới của nhiều bệnh viện trên cả nước.

Lợi ích thiết thực cho người bệnh và cả nhân viên y tế đều đã thấy rõ, tuy nhiên trên thực tế việc triển khai bệnh án điện tử vẫn đang là bài toán ‘đau đầu’ đối với các nhà quản lý bệnh viện. Tính đến cuối tháng 7/2022 mới chỉ có 34 cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc công bố triển khai bệnh án điện tử, trong đó chỉ lác đác một vài bệnh viện tuyến trung ương hiện thực hóa được điều này. Đây là con số quá khiêm tốn so với tổng số cơ sở y tế của cả nước. Điều gì khiến các cơ sở y tế chưa ‘mặn mà’ với bệnh án điện tử?

Là người đi sâu tìm hiểu về chuyển đổi số y tế và bệnh án điện tử ngay từ những ngày đầu, Bác sĩ Bảo Phi – Cố vấn Công nghệ thông tin của BV Đa khoa khu vực Long Khánh (Đồng Nai) chia sẻ “trở ngại là rất lớn, nếu muốn thực hiện bệnh án điện tử sâu hơn và trên quy mô rộng”. Một số thách thức phải kể đến như:

Thứ nhất, cơ sở hạ tầng và hệ thống phần mềm: Đây là một trong những khó khăn lớn nhất. Ví dụ một bệnh viện có cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin mức 3 khi đầu tư lên mức 6; Đầu tư, nâng cấp LIS, PACS mức nâng cao thì kinh phí không phải là con số nhỏ. Nhiều bệnh viện và cơ sở chăm sóc sức khỏe vẫn đang e dè trong việc đầu tư vốn để ứng dụng bệnh án điện tử, một phần vì chi phí cao, một phần vì để triển khai bệnh án điện tử “tới cùng” cần nhiều nguồn lực và là cả một chặng đường dài.

Thứ 2, hiện tại các bệnh viện/cơ sở y tế đang sử dụng những phần mềm HIS, LIS, PACS của nhiều đơn vị cung ứng khác nhau, không theo một chuẩn chung, rất khó tương thích trong kết nối giữa các tuyến, chưa nói đến việc tương thích với các phần mềm khi bệnh nhân thăm khám tại các cơ sở y tế nước ngoài. Nếu ứng dụng bệnh án điện tử nhưng không tích hợp được với các phần mềm đang sử dụng thì sẽ làm xáo trộn quy trình hoạt động bình thường của đơn vị, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc theo dõi, cập nhật dữ liệu sức khỏe và thăm khám bệnh nhân.

Bên cạnh đó, khi thực hiện chuyển đổi số, trình độ của một số cán bộ y tế chưa thể đáp ứng khi thay đổi từ bệnh án giấy sang thực hiện trên máy tính, nên cần đào tạo thêm hoặc có thể phải chuyển sang bộ phận khác, điều này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến công việc của họ.

Với kinh nghiệm triển khai thành công bệnh án điện tử tại BV Đa khoa khu vực Long Khánh, BS. Bảo Phi cho rằng, để tháo gỡ những trở ngại nói trên cần hỗ trợ ngân sách đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin cho các cơ sở y tế để giải quyết nhưng bước đầu tư ban đầu. Về lâu dài cần đưa chi phí công nghệ thông tin vào cấu thành trong giá dịch vụ KCB và có những ràng buộc về mức thanh toán chi phí bảo hiểm y tế với mức độ chuyển đổi số của cơ sở KCB. Điều này sẽ là đòn bẩy, động lực thúc đẩy các cơ sở KCB triển khai bệnh án điện tử thay cho bệnh án giấy. Nó cũng sẽ tương tự như năm 2016, lúc đó chưa đến 30% cơ sở KCB có phần mềm HIS nhưng sau khi thực hiện quy định liên thông cổng bảo hiểm xã hội để thanh toán BHYT thì đến nay 100% cơ sở KCB đã triền khai HIS trong hoạt động của cơ sở.

Để chọn được một phần mềm EMR đáp ứng tốt cho hoạt động của cơ sở KCB, ngoài các tiêu chuẩn phải đạt được theo quy định của Thông tư 46/2018/TT-BYT, giải pháp còn phải kết nối được và hoạt động tương thích với các phần mềm hiện có của cơ sở. Trong đó cần lưu ý đến khả năng lưu vết tất cả thay đổi nội dung đã nhập vào EMR của người dùng, đáp ứng kỹ thuật ký số các nội dung trong phiếu điều trị theo thời gian thực và đáp ứng các chuẩn liên thông quốc tế theo quy định hiện hành.

Cùng với đó, cần sớm thay đổi về các quy định, hoạt động hành chính liên quan tới lưu trữ hồ sơ, phương pháp quản lý và thói quen làm việc của nhân viên và cán bộ y tế để có thể triển khai thành công công cuộc chuyển đổi số. Đây cũng chính là bài toán lớn cần tìm lời giải ở các bệnh viện, cơ sở y tế.

Scroll to Top